Tìm hiểu về HTTP Polling và SSE

Công Nghệ
Tìm hiểu về HTTP Polling và SSE

Bài viết được sự cho phép của tác giả Kiên Nguyễn

Hôm nay, nhân tiện có task research call API bằng thằng AFNetworking bên Objective C. Lướt qua thấy một số kĩ thuật giao tiếp (Client / Server) mới. Đọc ra mới thấy có Library AFRocketClient sử dụng Server sent events (SSE), rồi thì là HTTP Polling, Long Polling. Đúng là đụng vào cái nào cũng brand new, nên có tìm hiểu đôi chút, viết bài này chia sẻ chút kiến thức nhỏ nhoi.

Do chưa bắt tay code thực tế, nên mình chỉ chú trọng vào bản chất, không có code ví dụ, mong anh em thông cảm.

1. HTTP Regular – Kiểu truyền thống (anh hỏi thì em thưa).

Đối với HTTP kiểu truyền thống, khi anh (client) đưa ra câu hỏi, yêu cầu có thể “ấy” một cái được không?. Nếu em đồng ý, lập tức trả lời CÓ, ngược lại thì nói là KHÔNG. Chả hề chần chừ suy nghĩ.

HTTP RegularHTTP Regular

Vấn đề đối với kiểu truyền thống này là hai chữ lập tức. Thời nay đã hiện đại rồi, vừa mới 8h02 client (anh) gửi request cho em (server) thì sau 2 mi li se cần ba má server (em) gửi request với nội dung đồng ý.

Vậy là chỉ tại 2 mi li se cần mà client (anh) lại nhận được câu trả lời là “éo”.

Thiệt tình là cay cú vl, từ đó kỹ thuật HTTP Polling ra đời. Mục đích nhằm gia tăng khả năng kết đôi, giúp tăng tỉ lệ sinh, giảm tỉ lệ tử, … lạc đề 😅😅

2. HTTP Polling – Kiểu siêng năng (cứ sau 5 phút lại hỏi, bất kể em có đồng ý không, hết 5 phút lại hỏi).

Chính vì kiểu regular hỏi phát bị từ chối luôn, nên Polling ra đời. Siêng năng cần cù gửi request sau một thời gian nhất định, vấn đề bất kể phản hồi (responsecó dữ liệu hay không?. Cụ thể ra là kệ em có trả lời có hay là không?. Nếu ỉm (timeout) thì cứ 5 phút anh vẫn hỏi 1 lần (đẹp trai không bằng chai mặt) 😞😞😞😞 😞😞😞😞 😞😞😞😞

Chính vì nguyên nhân đó, kĩ thuật này sẽ gây lãng phí lớn, tiêu chí realtime cũng không thật sự ổn định. Chính vì cái thái độ chày cối bất cần này, kĩ thuật HTTP Long Polling ra đời.

Hỗ trợ: Kĩ thuật này hoạt động ở tất cả browser có Javascript được bật.

Lưu ý: Kỹ thuật này là loại kĩ thuật gây lãng phí lớn, nếu thời gian giữa mỗi lần gửi request quá ít, gánh nặng về băng thông và xử lí request sẽ dồn nặng lên server. Ngay lúc này, một cuộc tấn công DDos bùng phát, đảm bảo server sẽ quá tải và chết bất đắc kì tử. Vì vậy, nếu không cần thiết, nên thận trọng khi sử dụng HTTP Polling

3. HTTP Long Polling – Kiểu chai mặt (anh hỏi nhưng phải chờ em hỏi ba má mới trả lời anh được).

Mới nhìn sơ thì phương thức này đập vào mặt là một chữ Long, vấn đề là cái gì Long (pen!s thì khỏi nói :v). Đáng buồn thay, kỹ thuật này lại nhấn mạnh vào thời gian chờ đợi dài.

Vậy kĩ thuật này hoạt động như thế nào?

Nhìn chung, client (anh) sẽ gửi request (yêu cầu) liên tục lặp lại giữa các khoảng thời gian dài (long). Hình dung ra theo 4 bước dưới đây:

  • Bước 1: Send request – anh hỏi em cho anh “ấy” cái được không?
  • Bước 2: Server event – em mở một luồng suy nghĩ (idle event – khoảng chờ), chờ sự hiện phản hồi từ một client khác (ba má). Vấn đề là anh (client) không thể chờ em cả đời -> Next step.
  • Bước 3: Nếu hết thời gian chờ, ba má chưa có câu trả lời thì em (server) vẫn phản hồi cho anh kết quả là “đéo”.
  • Bước 4: Send request again – sau khi nhận được câu trả lời (dù là yes hay no) thì anh (client) vẫn tiếp tục gửi lại request)

Bảng so sánh độ trễ và tốc độ load giữa Polling và Long Polling

Khi nào thì nên sử dụng kiểu chai mặt (HTTP Polling)?

So với kiểu truyền thống, kĩ thuật này mang màu sắc chai mặt (gửi request hoài hoài), nhưng cũng không phải là không có ưu điểm. Trường hợp user (ba má client) chỉ có mỗi một mụn con, đã gần đất xa trời, luôn mong ngóng có đứa nào đó chấp nhận cái request của con trai rồi mới nhắm mắt xuôi tay thì kĩ thuật này nên được áp dụng. Ưu điểm của HTTP Long polling là nó đáp ứng Realtime (thời gian thực), với độ trễ (Latency) gần như bằng Zero (0). Khi em trả lời là có, ngay lập tức anh (client) có câu trả lời sau 0 mi li se cần, sau đó ba má anh cũng biết, có thể thanh thản ra đi.



Nghiêm túc lại thì HTTP Polling sẽ cung cấp một API ổn định, mức độ phản hồi khi có thông tin mới rất nhanh, đáp ứng tiêu chí realtime.


Lưu ý: một nhược điểm tương đối cố hữu đối với HTTP Polling là chiếm băng thông (bandwidth), vì vậy cần phải cân nhắc chu kì gửi request không nên diễn ra quá nhanh.

Con nào mà cứ 2 phút lại hỏi “cho anh ấy một cái”, nó lại chả block

4. Server Sent Events – Kiểu dồn dập (anh hỏi một lần, em trả lời liên tục, chắc em cũng thích “ấy” 🤤🤤 ) .

Kỹ thuật này nhìn chung là giống HTTP Polling. Tuy nhiên có đôi chút khác biệt ở chỗ, client (anh) chỉ hỏi có một lần (kết nối chỉ mở một lần duy nhất), sau đó em (server) do quá hăng hái, nhiệt tình, nên cứ 3s em lại trả lời một lần rằng “ba má em chưa chịu”. Việc giao tiếp này gần như là một chiều (one way comminucation). Chiều từ server tới client.

Mới đầu đọc tới đây, mình cũng như anh em, đều phát sinh ý nghĩ rằng sao lại có cái kỹ thuật kết nối dở người kiểu này?.

Mục đích nó sinh ra là gì?

Sau một hồi research hăng hái, cuối cùng mình cũng có câu trả lời. Thực sự thì SSE (Server sent events) lại thật sự hữu ích đối với các yêu cầu dữ liệu phản hồi real time liên tục. Ví dụ như ứng dụng xem vị trí máy bay, ta chỉ gửi request xem lộ trình của máy bay A380 một lần, sau đó, server sẽ liên tục trả về tọa độ (latitude, longitude) của máy bay.

5. Kết luận

Túm cái quần lại, bài viết này cho các bạn một cái nhìn khách quan, vui vẻ về một số kỹ thuật mới (chắc có khi chỉ mới đối với mình 😂😂😂😂😂😂) sử dụng trong giao tiếp giữa client và server. Tuy nhiên, còn một thiếu sót nhỏ là chưa đề cập tới Websocket. Thời gian tới, mình sẽ viết riêng một bài mới về Websocket và so sánh giữa Websocket và SSE (Server sent events).

Cảm ơn các bạn đã đọc bài của mình, nếu bài viết của sai sót về nội dung, các bạn có thể comment phía dưới.

Bài viết gốc được đăng tải tại kieblog.vn

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm IT hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd