Tìm hiểu về Graceful Shutdown, Graceful Shutdown trong Golang

Công Nghệ
Tìm hiểu về Graceful Shutdown, Graceful Shutdown trong Golang
Bài viết được sự cho phép của tác giả Võ Xuân Phong Trong bài viết này, mình sẽ trình bày cho anh em về Graceful Shutdown với ngôn ngữ lập trình Golang. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu về Graceful Shutdown là gì? Tại sao chúng ta lại cần áp dụng nó và nó có mang lại lợi ích gì hay không? Channel trong Golang là gì? So sánh Callback function và mutex lock với channel Chiến trường sinh tử phiên bản lập trình : Python vs Ruby vs Golang Graceful Shutdown là gì? Hãy tưởng tượng rằng, chúng ta đang có một web service đang tiếp nhận yêu cầu (request) của các client để truy xuất dữ liệu từ database, vì dữ liệu truy xuất lớn nên phản hồi (response) phải mất một thời gian mới truy xuất xong. Trong khi đó anh em lại muốn tắt web service đó đi để bảo trì hệ thống hoặc triển khai (deploy) mới, bằng các thao tác kill ứng dụng web service đang chạy, có thể là câu lệnh stop của docker, câu lệnh kill process bằng PID hay Ctrl + C chúng ta vẫn thường hay dùng .v.v. Ngay lập tức những yêu cầu mà service xử lý chưa xong bị buộc ngưng giữa chừng. Ngoài ra những kết nối khác như kết nối với database không được kiểm soát và đóng lại đúng cách gây hao tốn tài nguyên của server. Những điều nói trên làm chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ về nó phải không? Điều chúng ta muốn là khi service bị buộc dừng thì nó sẽ: Không đón nhận những yêu cầu (request) mới. Xử lý và và phản hồi những yêu cầu (request) cũ. Cuối cùng là đóng các kết nối, sau đó...

Bài viết được sự cho phép của tác giả Võ Xuân Phong

Trong bài viết này, mình sẽ trình bày cho anh em về Graceful Shutdown với ngôn ngữ lập trình Golang. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu về Graceful Shutdown là gì? Tại sao chúng ta lại cần áp dụng nó và nó có mang lại lợi ích gì hay không?

Graceful Shutdown là gì?

Hãy tưởng tượng rằng, chúng ta đang có một web service đang tiếp nhận yêu cầu (request) của các client để truy xuất dữ liệu từ database, vì dữ liệu truy xuất lớn nên phản hồi (response) phải mất một thời gian mới truy xuất xong. Trong khi đó anh em lại muốn tắt web service đó đi để bảo trì hệ thống hoặc triển khai (deploy) mới, bằng các thao tác kill ứng dụng web service đang chạy, có thể là câu lệnh stop của docker, câu lệnh kill process bằng PID hay Ctrl + C chúng ta vẫn thường hay dùng .v.v. Ngay lập tức những yêu cầu mà service xử lý chưa xong bị buộc ngưng giữa chừng.

Ngoài ra những kết nối khác như kết nối với database không được kiểm soát và đóng lại đúng cách gây hao tốn tài nguyên của server. Những điều nói trên làm chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ về nó phải không?

Điều chúng ta muốn là khi service bị buộc dừng thì nó sẽ:

  1. Không đón nhận những yêu cầu (request) mới.
  2. Xử lý và và phản hồi những yêu cầu (request) cũ.
  3. Cuối cùng là đóng các kết nối, sau đó mới dừng service hoàn toàn.

Áp dụng Graceful Shutdown trong Golang.

Để thiết lập Graceful Shutdown cho ứng dụng web service của chúng ta, anh em cần thực hiện các bước sau:

  1. Cho ứng dụng của chúng ta chạy background trong 1 Goroutine.
  2. Thiết lập một channel để lắng nghe tín hiệu dừng từ hệ điều hành, ở đây chúng ta lưu ý 2 tín hiệu (signal) là SIGINT (The interrupt signal là loại tín hiệu khi user nhấn Ctrl + C để kết thúc chương trình) và SIGTERM (The termination signal là loại tín hiệu khi một ứng dụng muốn dừng tiến trình của một ứng dụng khác, như từ câu lệnh stop của Docker hoặc câu lệnh delete pods của Kubernetes)
  3. Thiết lập một khoản thời gian (Timeout), để dừng hoàn toàn ứng dụng và đóng tất cả kết nối.

Folder structure.

Chúng ta sẽ có folder structure như sau, tùy vào cách xây dựng structure của project anh em như thế nào anh em có thể refactor theo ý mình muốn.

response.go

File này chứa các hàm tiện ích hỗ trợ cho việc phản hồi cho người dùng kết quả dạng JSON.

package response

import (
	"encoding/json"
	"net/http"
)

func ResponseWithError(response http.ResponseWriter, statusCode int, msg string) {
	ResponseWithJSON(response, statusCode, map[string]string{
		"error": msg,
	})
}

func ResponseWithJSON(response http.ResponseWriter, statusCode int, data interface{}) {
	result, _ := json.Marshal(data)
	response.Header().Set("Content-Type", "application/json")
	response.WriteHeader(statusCode)
	response.Write(result)
}

 handler.go

Khi yêu cầu được gửi đến api /test-graceful-Shutdown thì hàm testGracefulShutDown bên trong xử lý nhiều công việc, sau 10 giây mới trả kết quả về cho client.

package handler

import (
	"log"
	"net/http"
	"time"

	"graceful-shutdown/pkg/utils/response"

	"github.com/gorilla/mux"
)

func testGracefulShutDown(res http.ResponseWriter, req *http.Request) {
	time.Sleep(10 * time.Second)
	log.Println("testGracefulShutdown job completed")
	response.ResponseWithJSON(res, 200, map[string]interface{}{"status": "completed"})
}

func New(r *mux.Router) {
	r.HandleFunc("/test-graceful-shutdown", testGracefulShutDown).Methods(http.MethodGet)
}

router.go

package router

import (
	"graceful-shutdown/internal/handler"

	"github.com/gorilla/mux"
)

func New() *mux.Router {
	router := mux.NewRouter()
	apiV1Router := router.PathPrefix("/api/v1").Subrouter()
	handler.New(apiV1Router)
	return router
}

app.go

Chúng ta đang thực hiện việc tạo ra một ứng dụng http server có hàm Start và Stop.

package app

import (
	"context"
	"graceful-shutdown/internal/handler"
	"log"
	"net/http"

	"github.com/gorilla/mux"
)

type (
	app struct {
		Server *http.Server
	}

	App interface {
		Start() error
		Stop(ctx context.Context) error
	}
)

const (
	ADDR = ":8081"
)

func New() App {
	router := mux.NewRouter()
	apiV1Router := router.PathPrefix("/api/v1").Subrouter()
	handler.New(apiV1Router)

	httpServer := &http.Server{
		Addr:    ADDR,
		Handler: router,
	}
	return app{
		Server: httpServer,
	}
}

func (a app) Start() error {
	log.Printf("Server is listening at %s", ADDR)
	return a.Server.ListenAndServe()
}

func (a app) Stop(ctx context.Context) error {
	return a.Server.Shutdown(ctx)
}

main.go

package main

import (
	"context"
	"log"
	"os"
	"os/signal"
	"syscall"
	"time"

	"graceful-shutdown/internal/app"
)

func main() {
	timeWait := 15 * time.Second
	application := app.New()
	signChan := make(chan os.Signal, 1)
	//1. Cho ứng dụng của chúng ta chạy background trong 1 Goroutine
	go func() {
		if err := application.Start(); err != nil {
			log.Printf("%v", err.Error())
		}
	}()
	//2. Thiết lập một channel để lắng nghe tín hiệu dừng từ hệ điều hành, 
	//   ở đây chúng ta lưu ý 2 tín hiệu (signal) là SIGINT và SIGTERM
	signal.Notify(signChan, os.Interrupt, syscall.SIGTERM)
	<-signChan
	log.Println("Shutting down")
	//3. Thiết lập một khoản thời gian (Timeout) để dừng hoàn toàn ứng dụng và đóng tất cả kết nối.
	ctx, cancel := context.WithTimeout(context.Background(), timeWait)
	defer func() {
		log.Println("Close another connection")
		cancel()
	}()
	log.Println("Stop http server")
	if err := application.Stop(ctx); err == context.DeadlineExceeded {
		log.Print("Halted active connections")
	}
	close(signChan)
	log.Printf("Completed")
}

Kết quả.

Chúng ta thực hiện việc run service và gửi một request http với method GET tới api test-graceful-Shutdown, sau đó ấn Ctrl + C để dừng service, và kết quả thu được là chương trình sẽ xử lý xong yêu cầu của người dùng sau đó mới đóng các kết nối và dừng hẳn.

Chạy service.

Gửi request http trước khi dừng chương trình, api xử lý mất tầm 10 giây nhưng sau khi thực hiện dừng chương trình thì client vẫn nhận được kết quả phản hồi mong muốn.

Link repository: https://github.com/PhongVX/go-graceful-Shutdown

Tóm lại.

Mình đã trình bày qua cách thiết lập Graceful Shutdown cho service của chúng ta, chúc anh em happy coding nhé, mong nhận được phản hồi tích cực từ anh em.

Bài viết gốc được đăng tải tại anhlamweb.com

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm Developer hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd