Sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình

Công Nghệ
Sự phát triển của các ngôn ngữ lập trình
Bài viết được sự cho phép của tác giả Edward Thien Hoang Ngôn ngữ lập trình bản thân chúng không phải là 1 thành phần trong kiến trúc nhưng sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không đề cập đến chúng trong loạt bài viết này. Cùng điểm sơ qua lịch sử phát triển của các ngôn ngữ lập trình cùng các mô hình lập trình (programming paradigm) qua thời gian và các vấn đề mà chúng giải quyết. 10 lý do cho thấy tại sao bạn nên theo học ngôn ngữ lập trình Java 10 ngôn ngữ phát triển nhanh nhất theo GitHub thống kê năm 2025 1950S – NON-STRUCTURED PROGRAMMING (LẬP TRÌNH PHI CẤU TRÚC) Assembly ~1951 Vào thời điểm sơ khai của lĩnh vực phát triển phần mềm, Assembly là ngôn ngữ hot nhất thời điểm bấy giờ. Nó sử dụng các lời gọi hàm bậc thấp như add, sub, goto và thao tác trực tiếp trên thanh nhớ. Mất khá nhiều thời gian chỉ để build 1 ứng dụng đơn giản. Để thực hiện một lệnh IF, ta cần đến vài dòng code, và sẽ là vài chục dòng code cho vòng loop… Lúc này, khả năng tái sử dụng và cấu trúc các thành phần hầu như là rất khó vì độ phức tạp của ngôn ngữ, các dòng lệnh chủ yếu được thực thi một cách tuần tự, nếu muốn sử dụng logic này ở chỗ khác thì chỉ có cách copy-paste. 1960S – STRUCTURED PROGRAMMING (LẬP TRÌNH CẤU TRÚC) Algol ~1958 Lập trình cấu trúc là bước tiến hóa tiếp theo sau đó. Nó mang đến khả năng cấu trúc các dòng lệnh theo block, cung cấp các giao diện (key word) để sử dụng các lệnh if, else, loop, case, … và...

Bài viết được sự cho phép của tác giả Edward Thien Hoang

Ngôn ngữ lập trình bản thân chúng không phải là 1 thành phần trong kiến trúc nhưng sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không đề cập đến chúng trong loạt bài viết này.

Cùng điểm sơ qua lịch sử phát triển của các ngôn ngữ lập trình cùng các mô hình lập trình (programming paradigm) qua thời gian và các vấn đề mà chúng giải quyết.

1950S – NON-STRUCTURED PROGRAMMING (LẬP TRÌNH PHI CẤU TRÚC)

Assembly ~1951
Vào thời điểm sơ khai của lĩnh vực phát triển phần mềm, Assembly là ngôn ngữ hot nhất thời điểm bấy giờ. Nó sử dụng các lời gọi hàm bậc thấp như add, sub, goto và thao tác trực tiếp trên thanh nhớ. Mất khá nhiều thời gian chỉ để build 1 ứng dụng đơn giản. Để thực hiện một lệnh IF, ta cần đến vài dòng code, và sẽ là vài chục dòng code cho vòng loop… Lúc này, khả năng tái sử dụng và cấu trúc các thành phần hầu như là rất khó vì độ phức tạp của ngôn ngữ, các dòng lệnh chủ yếu được thực thi một cách tuần tự, nếu muốn sử dụng logic này ở chỗ khác thì chỉ có cách copy-paste.

1960S – STRUCTURED PROGRAMMING (LẬP TRÌNH CẤU TRÚC)

Algol ~1958
Lập trình cấu trúc là bước tiến hóa tiếp theo sau đó. Nó mang đến khả năng cấu trúc các dòng lệnh theo block, cung cấp các giao diện (key word) để sử dụng các lệnh if, else, loop, case, … và các sub-routines (giống như global method để reuse). Từ đây chúng ta có thể tập trung vào việc lập trình các flow của chương trình (thay vì phải đau đầu với các “mật mã” assembly). Ý tưởng về re-useable code cũng khởi nguồn ở giai đoạn này.

1970S – PROCEDURAL & FUNCTIONAL PROGRAMMING (LẬP TRÌNH THỦ TỤC & CHỨC NĂNG)

Pascal ~1970, C ~1972
Lập trình thủ tục và lập trình chức năng được giới thiệu vào những năm đầu của thập niên 70, với các đặc điểm như:
Procedures: Tập các dòng lệnh để thực hiện một công việc gì đó và không trả về dữ liệu
Functions: Tập các dòng lệnh dùng để tính toán trả về dữ liệu
Data structures: dùng để diễn đạt thông tin của một sự vật, sự việc, hoặc để nhóm các thông tin có cùng một mục đích vào trong đó. (Lưu ý lúc này vẫn chưa có OOP nên mình tránh dùng từ đối tượng ở đây)
Modules: Các file code hoặc tập tin đã được biên dịch có thể dùng cho những chỗ khác.

Trong giai đoạn này, ý tưởng về Event Oriented Programming cũng đã xuất hiện trong một báo cáo về MVC (sử dụng các event) của Trygve Reenskaug.

Như vậy, trong giai đoạn này, các ngôn ngữ lập trình đã làm tăng tính tái sử dụng các module, cũng như cho phép tạo ra các cấu trúc để gom nhóm data cũng như việc sử dụng event để phân tách các thành phần với nhau. (Key work cần nhớ: decoupling and modularity)

1980S – OBJECT ORIENTED PROGRAMMING

C++ ~1980, Erlang ~1986, Perl ~1987,
Phyton ~1991, Ruby ~1993, Delphi, Java, Javascript, PHP ~1995
Một trong những mô hình lập trình linh hoạt và theo tôi là tốt nhất cho đến thời điểm hiện tại đó là OOP. Lập trình hướng đối tượng cho phép chúng ta phân tích các bài toán thành các thực thể được gọi là các đối tượng và xây dựng các dữ liệu, các hàm xung quanh các đối tượng này. Dữ liệu được liên kết với các hàm thành các vùng riêng mà chỉ có các hàm đó tác động lên, các hàm bên ngoài không được truy cập vào. Các đối tượng có thể tác động và trao đổi thông tin với nhau thông qua các thông điệp.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG LẬP TRÌNH HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG

ĐỐI TƯỢNG

Đối tượng là sự kết hợp giữa dữ liệu và thủ tục (còn gọi là phương thức) thao tác trên dữ liệu đó. Ta có công thức:
Đối tượng = Dữ liệu + Phương thức

LỚP

Lớp là một tập các đối tượng cùng loại (có cấu trúc dữ liệu và phương thức giống nhau). Một đối tượng sẽ thể hiện cụ thể từng lớp. Trong lập trình mỗi lớp được xem là một kiểu, còn các đối tượng sẽ là các biến có kiểu lớp khác.

ĐÓNG GÓI DỮ LIỆU

Trong lập trình cấu trúc các hàm được sử dụng mà không cần biết cụ thể nội dung. Người dùng chỉ cần biết chức năng của hàm cũng như các tham số để chạy hàm, không cần quan tâm đến những lệnh cụ thể bên trong. Người ta gọi chức năng đó là đóng gói dữ liệu.

Trong lập trình hướng đối tượng, cả chức năng và dữ liệu đều phải được đóng gói, mỗi đối tượng sẽ không thể truy cập trực tiếp vào các thành phần dữ liệu mà phải thông qua các thành phần chức năng để làm việc đó. Như vậy, đóng gói cho phép dữ liệu của đối tượng sẽ bị che đi một phần khi nhìn từ bên ngoài.

KẾ THỪA

Kế thừa là khả năng cho phép xây dựng một lớp mới dựa trên các cơ sở (định nghĩa) của một lớp có sẵn và có bổ sung phương thức hay thành phần dữ liệu. Khả năng sử dụng kế thừa các module chương trình rất dễ dàng mà không cần thay đổi module khác.

ĐA HÌNH

Tính đa hình sẽ xuất hiện khi có khái niệm kế thừa và có khả năng cho phép gửi cùng một thông điệp đến những đối tượng khác nhau mà không cần biết đối tượng nhận thuộc lớp dữ liệu nào, chỉ cần tập hợp các đối tượng nhận có chung hoặc gắn liền với một tính chất nào đó.

1990S – SUBJECT & ASPECT ORIENTED PROGRAMMING

Subject Oriented Programming gọi cho các biểu diễn khác nhau của các đối tượng, theo người đang “nhìn” vào nó. Ví dụ, trong khi con người có thể nhìn thấy gỗ khi nhìn vào cái cây, một con chim có thể thấy một lượng thức ăn và nơi trú ẩn. Để mô hình hóa việc đó trong lập trình, nó có nghĩa là thuộc tính và hành vi của đối tượng có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào ai gửi thông điệp đến đối tượng.

Aspect Oriented Programming (AOP) – lập trình hướng khía cạnh: là một kỹ thuật lập trình (kiểu như lập trình hướng đối tượng) nhằm phân tách chương trình thành cách moudule riêng rẽ, phân biệt, không phụ thuộc nhau.
Khi hoạt động, chương trình sẽ kết hợp các module lại để thực hiện các chức năng nhưng khi sửa đổi 1 chức năng thì chỉ cần sửa 1 module.
AOP không phải dùng để thay thế OOP mà để bổ sung cho OOP.

SAU OOP

Sau OOP thì hầu như không có mô hình lập trình mới nào đáng chú ý. Tất cả đổ dồn vào việc tùy biến các ngôn ngữ lập trình hiện tại để tối ưu cho các mục đích cụ thể nhất định, các framework, ngôn ngữ dành riêng cho phát triển web, mobile hoặc 1 nền tảng nào đó như Go cho Google, Hack của Facebook, …

KẾT LUẬN

Chúng ta đã điểm qua sơ bộ về một số mô hình lập trình chính, tất nhiên là tôi không quá chú trọng về nội dung chi tiết, vì chúng đã được nhắc đến rất nhiều trên mạng internet. Phần tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là chiều hướng phát triển của các mô hình lập trình, chúng tiến hóa theo chiều hướng của Modularity (low coupling – liên kết lỏng lẽo) và Encapsulation (high cohesion – độ gắn kết cao). Trong những bài viết tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục thấy sự phát triển của các mô hình kiến trúc cũng theo chiều hướng nhằm đạt được tối đa 2 tính chất quan trọng NHẤT vừa đề cập.

Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về low coupling và high cohension, tôi khuyến nghị nên đọc thêm về nó ở đây trước khi bắt đầu vào loạt bài tiếp theo.

Đây là bài viết trong loạt bài viết về “Tổng quan về sự phát triển của kiến trúc phần mềm“. Đây là loạt bài viết chủ yếu giới thiệu về một số mô hình kiến trúc phần mềm hay nói đúng hơn là sự phát triển của chúng qua từng giai đoạn, qua đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, up-to-date và là roadmap để bắt đầu hành trình chinh phục (đào sâu) thế giới của những bản thiết kế với vai trò là những kỹ sư và kiến trúc sư phần mềm đam mê với nghề.

Bài viết được tham khảo từ:

Programming Language evolution

Bài viết gốc được đăng tải tại edwardthienhoang.wordpress.com

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm các việc làm Developer hấp dẫn tại Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd