Sử dụng Dead Letter Exchange trong RabbitMQ

Công Nghệ
Sử dụng Dead Letter Exchange trong RabbitMQ
Bài viết được sự cho phép của tác giả Giang Phan Dead Letter Exchange trong RabbitMQ Dead Letter Exchange là gì? Dead Letter là một tin nhắn không thể gửi đến người nhận. Dead Letter Queue (DLQ), là hàng đợi chứa tin nhắn chưa được gửi, không thể được gửi đến đích của chúng vì lý do này hay lý do khác. Trong hàng đợi tin nhắn, DLQ là một dịch vụ được cài đặt để lưu trữ các tin nhắn đáp ứng một hoặc nhiều sự kiện sau: Tin nhắn bị từ chối (rejected) bởi một Queue Exchange. Message hết hạn (expire) do Time to live (TTL). Vượt quá giới hạn chiều dài hàng đợi (length limit). Giới thiệu CloudAMQP – Một RabbitMQ server trên Cloud Sử dụng binding Exchange to Exchange trong RabbitMQ Dead Letter Exchange là một Exchange bình thường, có thể là một trong 4 loại Exchange (Direct, Fanout, Topic, Headers). Điều gì xảy ra với Dead Letter Message? Gửi tới một Dead Letter Exchange. Thêm một số thông tin vào header của Message trước khi gửi đến Dead Letter Exchange. Cấu hình Dead Letter Exchange sử dụng Optional Queue Arguments Để gán một Dead Letter Exchange cho một Queue sử dụng agruments x-dead-letter-exchange khi định nghĩa Queue. channel.exchangeDeclare("gpcoder.exchange.name", "direct"); Map<String, Object> args = new HashMap<String, Object>(); args.put("x-dead-letter-exchange", "gpcoder.exchange.name"); channel.queueDeclare("GPCoderQueue", false, false, false, args); Đoạn code trên đơn giản tạo một Exchange mới gọi là gpcoder.exchange.name và Exchange mới này là Dead Letter Exchange cho hàng đợi mới được tạo. Lưu ý rằng Exchange không phải được khai báo khi hàng đợi được khai báo, nhưng nó phải tồn tại tại thời điểm các Message được Dead Letter, nếu không thì các Message sẽ bị hủy bỏ. Theo mặc định RabbitMQ sẽ lấy khoá định tuyến...

Bài viết được sự cho phép của tác giả Giang Phan

Dead Letter Exchange trong RabbitMQ

Dead Letter Exchange là gì?

Dead Letter là một tin nhắn không thể gửi đến người nhận. Dead Letter Queue (DLQ), là hàng đợi chứa tin nhắn chưa được gửi, không thể được gửi đến đích của chúng vì lý do này hay lý do khác.

Trong hàng đợi tin nhắn, DLQ là một dịch vụ được cài đặt để lưu trữ các tin nhắn đáp ứng một hoặc nhiều sự kiện sau:

  • Tin nhắn bị từ chối (rejected) bởi một Queue Exchange.
  • Message hết hạn (expire) do Time to live (TTL).
  • Vượt quá giới hạn chiều dài hàng đợi (length limit).

Dead Letter Exchange là một Exchange bình thường, có thể là một trong 4 loại Exchange (Direct, Fanout, Topic, Headers).

Điều gì xảy ra với Dead Letter Message?

  • Gửi tới một Dead Letter Exchange.
  • Thêm một số thông tin vào header của Message trước khi gửi đến Dead Letter Exchange.

Cấu hình Dead Letter Exchange sử dụng Optional Queue Arguments

Để gán một Dead Letter Exchange cho một Queue sử dụng agruments x-dead-letter-exchange khi định nghĩa Queue.

channel.exchangeDeclare("gpcoder.exchange.name", "direct");

Map<String, Object> args = new HashMap<String, Object>();
args.put("x-dead-letter-exchange", "gpcoder.exchange.name");
channel.queueDeclare("GPCoderQueue", false, false, false, args);

Đoạn code trên đơn giản tạo một Exchange mới gọi là gpcoder.exchange.name và Exchange mới này là Dead Letter Exchange cho hàng đợi mới được tạo. Lưu ý rằng Exchange  không phải được khai báo khi hàng đợi được khai báo, nhưng nó phải tồn tại tại thời điểm các Message được Dead Letter, nếu không thì các Message sẽ bị hủy bỏ.

Theo mặc định RabbitMQ sẽ lấy khoá định tuyến từ Message ban đầu được gửi đến Exchange. Chúng ta cũng có thể chỉ định một khóa định tuyến sẽ được sử dụng khi Dead Letter Message nếu muốn.

args.put("x-dead-letter-routing-key", "some-routing-key");

Routing Dead-Lettered Message

Dead-lettered message được định tuyến tới Dead Letter Exchange theo thứ tự ưu tiên sau:

  • Theo khoá định tuyến được chỉ định cho hàng đợi Dead Letter Message được chỉ định.
  • Theo khoá định tuyến ban đầu Message được publish.

Ví dụ: Nếu một Message ban đầu được publish đến Exchange với khoá định tuyến foo. Sau đó Message này bị reject và nó trở thành một Dead Letter Message. Và nó được publish đến Dead Letter Exchange với khoá định tuyến foo. Giả sử chúng ta đã chỉ định một khóa định tuyến sẽ được sử dụng khi Dead Letter Message là bar, lúc này Message được publish đến Dead Letter Exchange với khoá định tuyến bar.

Dead-lettered message được re-published với tính năng publisher confirm được bật mặc định để đảm bảo rằng Dead-letter queue phải gửi xác nhận Message (ack) đã được lưu trữ trước khi nó bị xoá ở Queue gốc.

Message bị thay đổi như thế nào khi chuyển sang Dead-Lettered Message?

Header bị thay đổi:

  • Exchange name bị thay thế bởi Dead-letter exchange name.
  • Routing key có thể bị bởi một Routing key khác.
  • Nếu điều trên xảy ra, thì CC và BCC header cũng sẽ bị remove.

Thêm header x-death, với một mảng các giá trị:

  • queue: tên của Queue mà Message được publish trước khi nó trở thành Dead-Lettered Message.
  • reason: lý do xảy ra Dead-Lettered Message. Có thể là: rejected, expired, maxlen.
  • time: thời gian Message bị dead lettered.
  • exchange: tên Exchange mà Message được publish, nó có thể là dead letter exchange nếu Message bị dead lettered nhiều lần.
  • routing-keys: là routing key (bao gồm CC keys nhưng không bao gồm BCC keys) của Message được publish.
  • count: số lần mà Message bị dead-lettered trong Queue này vì lý do này.
  • original-expiration: nếu Message bị dead-lettered vì lý do TTL, nào là giá trị của thuộc tính expiration ban đầu của Message. Thuộc tính expiration sẽ bị remove từ dead-lettering message để ngăn việc expiring lần nữa trong Queue mà nó được định tuyến đến.

3 header được thêm cho mỗi dead-lettering event đầu tiên:

  • x-first-death-reason
  • x-first-death-queue
  • x-first-death-exchange

Chúng có cùng các giá trị như reason, queue, và exchange của event xảy ra Dead-Lettered ban đầu. Sau khi thêm, các header này không bao giờ được sửa đổi.

Lưu ý rằng: mảng giá trị x-death được sắp xếp gần đây nhất trước, do đó, Dead-Lettered gần đây nhất sẽ được ghi lại trong mục đầu tiên.

Ví dụ sử dụng Dead Letter Exchange trong RabbitMQ

Trong ví dụ này tôi sử dụng Dead Letter Exchange để mô phỏng trường hợp Retry xử lý sau mỗi 300 millisecond nếu ngay lần nhận Message đó không thể xử lý thành công.

Sử dụng Dead Letter Exchange trong RabbitMQSử dụng Dead Letter Exchange trong RabbitMQ

  1. Tạo một WorkQueue và bind đến WorkExchange.
  2. Tạo một RetryQueue và bind đến RetryExchange.
    • Gán agruments: x-dead-letter-exchange đến WorkExchange
    • Gán agruments: x-message-ttl là 300 ms.
  3. Producer publish một Message đến WorkExchange. Sau đó, WorkExchange sẽ chuyển Message đến WorkQueue.
  4. Consumer nhận Message từ WorkQueue và cố gắng xử lý nó.
  5. Trường hợp xử lý thất bại, Consumer sẽ publish Message đó đến RetryExchange. Sau đó, RetryExchange sẽ chuyển Message đến RetryQueue.
  6. Message sẽ lưu tại RetryQueue trong 300 ms.
  7. Khi Message bị expire, nó sẽ được chuyển đến WorkExchange và được chuyển đến WorkQueue.
  8. Khi đó Consumer có thể nhận lại Message từ WorkQueue và xử lý lại.

Hãy xem code implement:

package com.gpcoder.deadletterexchange;

import com.rabbitmq.client.*;

import java.io.IOException;
import java.time.LocalDateTime;
import java.util.HashMap;
import java.util.Map;
import java.util.concurrent.TimeoutException;

public class App {

// Exchange
private static final String WORK_EXCHANGE_NAME = "GPcoder.WorkExchange";
private static final String RETRY_EXCHANGE_NAME = "GPcoder.RetryExchange";

// Queue
private static final String WORK_QUEUE_NAME = "WorkQueue";
private static final String RETRY_QUEUE_NAME = "RetryQueue";

private static final int RETRY_DELAY = 300; // in ms

private static Channel channel;
private static int RETRY_COUNT = 0;

public static void main(String[] args) throws IOException, TimeoutException {
ConnectionFactory factory = new ConnectionFactory();
factory.setHost("localhost");
Connection connection = factory.newConnection();

channel = connection.createChannel();

// Create the WorkQueue
channel.exchangeDeclare(WORK_EXCHANGE_NAME, BuiltinExchangeType.DIRECT, true);
channel.queueDeclare(WORK_QUEUE_NAME, true, false, false, null);
channel.queueBind(WORK_QUEUE_NAME, WORK_EXCHANGE_NAME, "", null);

// Create the RetryQueue
Map<String, Object> arguments = new HashMap<>();
arguments.put("x-dead-letter-exchange", WORK_EXCHANGE_NAME);
arguments.put("x-message-ttl", RETRY_DELAY);
channel.exchangeDeclare(RETRY_EXCHANGE_NAME, BuiltinExchangeType.DIRECT, true);
channel.queueDeclare(RETRY_QUEUE_NAME, true, false, false, arguments);
channel.queueBind(RETRY_QUEUE_NAME, RETRY_EXCHANGE_NAME, "", null);

// basicPublish - ( exchange, routingKey, basicProperties, body)
String message = "GPCoder Message";
System.out.println("[" + LocalDateTime.now() + "] [Work] [Send]: " + message);
channel.basicPublish(WORK_EXCHANGE_NAME, "", null, message.getBytes());

consumer(WORK_QUEUE_NAME);
}

private static void consumer(String queueName) throws IOException {
// basicConsume - ( queue, autoAck, deliverCallback, cancelCallback)
DeliverCallback deliverCallback = (consumerTag, message) -> {
String content = new String(message.getBody());
System.out.println("[" + LocalDateTime.now() + "] [Received] [" + queueName + "]: " + content);
System.out.println("");
if (RETRY_COUNT < 5) { publishToRetryExchange(content); RETRY_COUNT++; } else { RETRY_COUNT = 0; } }; CancelCallback cancelCallback = consumerTag -> System.out.println(consumerTag);
channel.basicConsume(queueName, true, deliverCallback, cancelCallback);
}

// Publish to RetryQueue on failure
private static void publishToRetryExchange(String message) throws IOException {
System.out.println("[" + LocalDateTime.now() + "] [Retry" + RETRY_COUNT + "] [Re-Publish]: " + message);
channel.basicPublish(RETRY_EXCHANGE_NAME, "", null, message.getBytes());
}
}

Output chương trình:

[2020-05-03T22:57:03.614] [Work] [Send]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:03.620] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

[2020-05-03T22:57:03.620] [Retry0] [Re-Publish]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:03.922] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

[2020-05-03T22:57:03.922] [Retry1] [Re-Publish]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:04.224] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

[2020-05-03T22:57:04.224] [Retry2] [Re-Publish]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:04.526] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

[2020-05-03T22:57:04.526] [Retry3] [Re-Publish]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:04.828] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

[2020-05-03T22:57:04.828] [Retry4] [Re-Publish]: GPCoder Message
[2020-05-03T22:57:05.131] [Received] [WorkQueue]: GPCoder Message

Như bạn thấy, Message được tự động chuyển từ WorkQueue sang RetryQueue sau mỗi 300 ms nhờ vào Dead Letter Message. Đây là ví dụ cho trường hợp một Message hết hạn (expire) do Time to live (TTL).

Tương tự các bạn có thể set agruments là agruments.put(“x-max-length”, 10) để test trường hợp số lượng Message trong Queue vượt quá giới hạn chiều dài hàng đợi (length limit).

Tài liệu tham khảo:

Bài viết gốc được đăng tải tại gpcoder.com

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm Developer hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd