Nom Parser và Parser Combinator

Công Nghệ
Nom Parser và Parser Combinator

Bài viết được sự cho phép của tác giả Huy Trần

Parsing là kĩ thuật phân tích cú pháp để trích xuất thông tin và chuyển đổi một tập dữ liệu cho trước về một dạng dữ liệu có cấu trúc để dễ làm việc hơn.

Có rất nhiều kĩ thuật parsing khác nhau, trong bài này chúng ta nói về kĩ thuật Parser Combinator, chi tiết các bạn đọc trong Wikipedia.

Hiểu nôm na Parser Combinator là kĩ thuật kết hợp nhiều parser nhỏ lại với nhau theo một quy tắc nào đó để có thể parse một nội dung lớn hơn và phức tạp hơn. Quy tắc dùng để kết hợp các parser nhỏ được đưa ra dựa trên cú pháp của nội dung đầu vào. Việc chia thành nhiều parser nhỏ hơn như thế này cũng giúp chúng ta sử dụng lại code tốt hơn và dễ dàng thực hiện unit test hơn.

Nom là một thư viện cung cấp cho chúng ta rất nhiều công cụ để kết hợp và build parser sử dụng kĩ thuật Parser Combinator. Ưu điểm của Nom đó là nhanh và an toàn, nhờ vào khả năng hạn chế cấp phát bộ nhớ (từ thao tác copy string).

Khi sử dụng Nom, một parser sẽ là một hàm nhận vào một dữ liệu kiểu I, và trả về một dữ liệu kiểu nom::IResult<I, O, E> trong đó E là kiểu dữ liệu cho thông báo lỗi. Trong một số trường hợp, ta có thể bỏ qua kiểu E, và viết thành nom::IResult<I, O>. Nội dung trả về sẽ là một tuple có dạng (I, O), với I là nội dung còn thừa sau khi chạy parser, và O là kết quả sau khi trích xuất nội dung.

Ví dụ parser sau đây trích xuất các kí tự số trong một string slice, chuyển nó thành kiểu i32 rồi trả về phần còn thừa:

fn parse_number(input: &str) -> IResult<&str, i32> {
    map_res(digit1, |c: &str| c.parse::<i32>()).parse(input)
}

let (left_over, number) = parse_number("123abc")?;
// left_over = "abc"
// number = 123

Ở đây, hàm digit1 là một parser do Nom cung cấp, có chức năng match tất cả các kí tự số có trong chuỗi, hàm map_res(P, Fn) được dùng để truyền kết quả trả về từ parser P vào hàm Fn để lấy ra một giá trị mới. Ở đây ta truyền kết quả parse từ digit1 vào một closure để convert về kiểu i32.

Ta có thể sử dụng hàm parse_number để phát triển thành một parser mới phức tạp hơn, ví dụ viết một parser để phân tích một biểu thức dạng "A+B"”A-B””A*B” hoặc ”A/B”.

Trước khi viết code, chúng ta sẽ phân tích một tí, các biểu thức trên sẽ có dạng chung gồm 3 thành phần, như bảng sau:

Left Operator Right
10 + 3
9 5
2 * 3
6 / 2

Trong đó, left và right là các kí tự số, có thể parse bằng hàm parse_number đã viết ở trên. Còn operator sẽ là một trong 4 kí tự ”+””-””*” hoặc ”/”. Quy tắc kết hợp của biểu thức cần parse sẽ là:

left + (+ - * /) + right

Để cho đơn giản, ta có thể bỏ qua trường hợp có các khoảng trắng có trong biểu thức. Ta cần viết một hàm parse_expression trả về một tuple có dạng (i32, i32, &str) tương ứng với (left, right, operator).

fn parse_expression(input: &str) -> IResult<&str, (i32, &str, i32)> {
	tuple((
        parse_number,
        alt(( tag("+"), tag("-"), tag("*"), tag("/") )),
        parse_number
   )).parse(input)
}

Ở trong đoạn code trên, chúng ta sử dụng các parser mà Nom đã build sẵn, ví dụ:

  • tuple(): nhận vào một tuple gồm nhiều parser khác nhau, và trả về một tuple với các giá trị trả về theo thứ tự tương ứng.
  • alt(): nhận vào một tuple gồm nhiều parser khác nhau, và trả về một giá trị duy nhất ứng với một trong các parser đầu vào.
  • tag(): nhận vào một string slice và trả về giá trị ứng với nội dung input.

Chạy thử với biểu thức 10*6, việc parsing diễn ra theo thứ tự như sau:

  • Đầu tiên, parser tuple((...)) sẽ chạy, nhận vào input là "10*6", bắt đầu gọi từng parser bên trong nó.
  • Parser thứ nhất, là parse_number nhận vào input "10*6", và match được 2 ký tự "10", chuyển nó thành kiểu i32 là 10, trả về một tuple có dạng ("*6", 10), trong đó "*6" là phần input còn thừa, sẽ được truyền tiếp vào parser tiếp theo.
  • Tiếp theo, parser alt((...)) sẽ nhận vào input "*6" và chạy từng parser bên trong nó:
    • tag("+") sẽ fail, không match được gì cả
    • Tiếp theo, tag("-") cũng fail luôn
    • Đến tag("*") thì match được ký tự "*"
    • Thế là alt((...)) hoàn thành, trả về tuple có giá trị là ("6", "*") để chuẩn bị truyền vô parser tiếp theo.
  • Cuối cùng, parse_number thứ 2 sẽ nhận vào input "6" và match toàn bộ nó, chuyển thành kiểu i32 là 6, trả về tuple ("", 6).
  • Mọi parser bên trong đã hoàn thành, lúc này parser tuple((...))sẽ tổng hợp các kết quả đã match được và trả về một tuple có dạng ("", (10, "*", 6)). Trong đó, chuỗi rỗng "" là phần còn lại của input, còn tuple (10, "*", 6) chính là nội dung chúng ta đã match được.

Đến khúc này nhiều bạn sẽ hỏi là: làm sao để biết được có những parser nào mà xài, và lúc nào nên sử dụng parser có sẵn, lúc nào build mới? Câu trả lời là tham khảo trang List of parsers and combinators, cái nào có sẵn rồi thì mình xài thôi.

Phần lớn thời gian khi sử dụng Nom, chúng ta sẽ sử dụng các parser build sẵn này rất nhiều, có khi là dùng trực tiếp, nhưng thông thường là để kết hợp nhiều parser lại với nhau tạo thành parser mới.

Hôm nay viết đến đây thôi, ở bài sau chúng ta sẽ ứng dụng Nom để viết parser cho công cụ nhắc việc như Reminder.app của MacOS. Mong các bạn đón đọc.

Bài viết gốc được đăng tải tại thefullsnack.com

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm IT hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd