Những mã xấu mà Java 8 có thể khử

Công Nghệ
Những mã xấu mà Java 8 có thể khử
Bài viết được sự cho phép của Nguyễn Bình Sơn Tới hiện tại, Java 8 đã được sử dụng trên hầu hết các ứng dụng chạy trên JVM, nhưng điều đó không có nghĩa là những gì tối tân của phiên bản này đã được khai thác triệt để. Dưới đây là một số cách viết mã già cỗi nên được cập nhật. 10 câu hỏi JavaScript để tăng cường kỹ năng của bạn Giới thiệu về Reactive Programing trong javascript 1. Inner class vô danh Bất cứ khi nào bạn gặp một inner class vô danh, bạn nên cân nhắc sử dụng biểu thức lambda . Lấy ví dụ: list.sort(new Comparator() public int compare (String o1, String o2) { return o1.length() - o2.length(); } }); …chuyển thành như sau ngắn gọn hơn nhiều: [java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length()); Dù vậy, mã ở đây vẫn không quá dễ đọc, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét về Comparator. 2. Comparators Comparator trong Java 8 không chỉ tối tân ở sự tương thích với các biểu thức lambda . Nó có những phương thức kết hợp với các tham chiếu phương thức, giúp cho mã trong sáng hơn rất nhiều: [java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length()); Một ví dụ khác, bạn thậm chí có thể lấy các kết quả theo thứ tự ngược lại, tất cả chỉ bằng cách sử dụng thêm một phương thức hỗ trợ khác: [java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length()); 3. Các class không trạng thái Thường thì bạn sẽ hay gặp các lớp không có gì khác ngoài các phương thức tĩnh (chúng thường được đặt tên được tận cùng là “Util” hay “Helper”), chúng có nhiệm vụ gom nhóm các phương thức lại trong một không gian tên duy nhất. Không ai cần phải tạo đối tượng...

Bài viết được sự cho phép của Nguyễn Bình Sơn

Tới hiện tại, Java 8 đã được sử dụng trên hầu hết các ứng dụng chạy trên JVM, nhưng điều đó không có nghĩa là những gì tối tân của phiên bản này đã được khai thác triệt để. Dưới đây là một số cách viết mã già cỗi nên được cập nhật.

1. Inner class vô danh

Bất cứ khi nào bạn gặp một inner class vô danh, bạn nên cân nhắc sử dụng biểu thức lambda. Lấy ví dụ:

list.sort(new Comparator()
  public int compare (String o1, String o2) {
    return o1.length() - o2.length();
  }
});

…chuyển thành như sau ngắn gọn hơn nhiều:

[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());

Dù vậy, mã ở đây vẫn không quá dễ đọc, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét về Comparator.

2. Comparators

Comparator trong Java 8 không chỉ tối tân ở sự tương thích với các biểu thức lambda. Nó có những phương thức kết hợp với các tham chiếu phương thức, giúp cho mã trong sáng hơn rất nhiều:

[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());

Một ví dụ khác, bạn thậm chí có thể lấy các kết quả theo thứ tự ngược lại, tất cả chỉ bằng cách sử dụng thêm một phương thức hỗ trợ khác:

[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());

3. Các class không trạng thái

Thường thì bạn sẽ hay gặp các lớp không có gì khác ngoài các phương thức tĩnh (chúng thường được đặt tên được tận cùng là “Util” hay “Helper”), chúng có nhiệm vụ gom nhóm các phương thức lại trong một không gian tên duy nhất. Không ai cần phải tạo đối tượng của các class này, và kể cả khi có làm việc đó thì các đối tượng này cũng không lưu giữ bất cứ dữ liệu riêng nào, do đó các class này được gọi là class không trạng thái (stateless).

Với Java 8, các interface có khả năng chứa các phương thức tĩnh, và trở thành lựa chọn tốt hơn so với class, bởi chúng ta không phải lo có ai đó tạo đối tượng của interface. Ví dụ kinh điển lần nữa lại là Comparator – với các phương thức tĩnh hữu dụng và mạnh mẽ của nó.

Tương tự như thế, nếu bạn gặp một class trừu tượng không trạng thái, chỉ có duy nhất những phương thức trừu tượng được thiết kế để ghi đè, lớp đó có thể được chuyển đổi thành những FunctionalInterface và sau đó được implement bằng biểu thức lambda, như Runnable chẳng hạn:

Trước Java 8:

new Thread(new Runnable() {
    @Override
public void run() { 
      System.out.println("New thread created"); 
    } 
  }).start();

Java 8:

new Thread(() -> {
    System.out.println("New thread created");
}).start();

Một ví dụ khác để thử xem xét cách triển khai, sử dụng annotation @FunctionalInterface cho interface:

@FunctionalInterface
interface Square {
  int calculate(int x);
}

… và implement bằng biểu thức lambda:

int a = 5;
Square s = (x) -> x * x;
int ans = s.calculate(a);
System.out.println(ans);

4. Các chỉ dẫn lặp và rẽ nhánh lồng nhau

Chúng ta có bộ API Streams được thiết kế để truy cập các collection theo cách vô cùng uyển chuyển. Khi gặp mã nguồn như dưới đây:

List<Field> validFields = new ArrayList<Field>();
for (Field field : fields) {
  if (meetsCriteria(field)) {
    validFields.add(field);
  }
}
return validFields;

…bạn phải nghĩ tới việc thay thế bằng mã sử dụng Streams. Ở đây ta dùng filter và collect:

return fields.stream()
  .filter(this::meetsCriteria)
  .collect(Collectors.toList());

Đôi khi, các vòng lặp với một lệnh rẽ nhánh ở trong có thể được tái cấu trúc thành anyMatch hay findFirst:

for (String current : strings) {
  if (current.equals(wanted)) {
    return true;
  }
}
return false;

…có thể được thay thế bởi:

return strings.stream()
  .anyMatch(current -> current.equals(wanted));


Và:

for (String current : strings) {
  if (current.equals(wanted)) {
    return current;
  }
}
return null;

…có thể sửa thành:

return strings.stream()
    .filter(current -> current.equals(wanted))
    .findFirst()
    .orElse(null);

Lưu ý rằng orElse(null) thực tế là một mã xấu, chúng ta sẽ nói đến sau.

5. Đa thao tác trên collection

Mặc dù đã cố gắng tối ưu hóa, nhưng chúng ta vẫn thường xuyên gặp trường hợp một chuỗi các thao tác được thực hiện trên một hay nhiều collection để có được kết quả mong muốn. Xem xét ví dụ dưới đây:

// collect messages for logging
List<LogLine> lines = new ArrayList<>();
for (Message message : messages) {
  lines.add(new LogLine(message));
}
// sort
Collections.sort(lines);
// log them
for (LogLine line : lines) {
  line.log(LOG);
}

Chia để trị đã giúp cho mã được rõ ràng, nhưng chưa nói tới việc phải sử dụng tới comment để làm rõ ý, thì lời gọi Collections.sort vẫn gợi ý rằng chúng ta có thể sử dụng Streams tại đây. Trong thực tế, toàn bộ đoạn mã trên có thể được gộp vào một stream duy nhất:

messages.stream()
    .map(LogLine::new)
    .sorted()
    .forEach(logLine -> logLine.log(LOG));

Tái cấu trúc này không chỉ giúp mã dễ đọc hơn hay ít lại một biến trung gian, mà thực tế còn có hiệu năng cao hơn.

6. Duyệt để xóa bỏ các phần tử

Mã trước-Java-8 có thể có những đoạn mã như sau:

Iterator<String> iterator = strings.iterator();
while (iterator.hasNext()) {
  String current = iterator.next();
  if (current.endsWith("foo bar")) {
    iterator.remove();
  }
}

Giờ đây đoạn mã trên có thể được rút ngắn còn một dòng:

[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());

Ngắn hơn, dễ đọc hơn, và cũng nhanh hơn!

7. Kiểm Null

NullPointerExceptions là điểm chí tử của các nhà phát triển Java, và bạn sẽ không lấy làm lạ khi các phép kiểm null nằm rải rác trong mã. Java 8 cho chúng ta API Optional giúp chúng ta mô tả kết quả trả về tốt hơn nhiều cũng như loại bỏ các kiểm null không cần thiết. Hãy quay lại với orElse mà chúng ta có ở tái cấu trúc số 4:

public static String findString (String wanted){
  List<String> strings = new ArrayList<>();
  return strings.stream()
      .filter(current -> current.equals(wanted))
      .findFirst()
      .orElse(null);
}

Bất kỳ lời gọi findString nào cũng sẽ phải kiểm null cho giá trị nhận được, và nếu an toàn thì làm một thao tác nào đó:

String foundString = findString(wantedString);
if (foundString == null) {
  return "Did not find value" + wantedString;
} else {
  return foundString;
}

Mã này xấu, dễ lặp và tẻ nhạt. Nếu cập nhật phương thức findString thành sử dụng Optional:

public static Optional<String> findString(String wanted) {
  List<String> strings = new ArrayList<>();
  return strings.stream()
      .filter(current -> current.equals(wanted))
      .findFirst();
}

…thì chúng ta có thể thoát khỏi trường hợp không có giá trị một cách thanh nhã hơn nhiều:

[java]list.sort((o1,o2) -> o1.length() - o2.length());

Bài viết gốc được đăng tải tại Tạp Chí Lập Trình

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm các việc làm Java hấp dẫn tại Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd