Deploy ứng dụng load balancer sử dụng Nginx với Docker

Công Nghệ
Deploy ứng dụng load balancer sử dụng Nginx với Docker

Bài viết được sự cho phép của tác giả Nguyễn Hữu Khanh

Load balancer là một khái niệm về cân bằng tải, được sử dụng để giúp ứng dụng của chúng ta có thể handle một số lượng lớn các request từ người dùng. Chúng ta sẽ deploy ứng dụng của mình lên nhiều máy khác nhau, behind một load balancer, các request từ người dùng sẽ gọi tới load balancer và sẽ được load balancer forward tới một trong các máy này… Nginx là một trong những web server có thể hỗ trợ chúng ta hiện thực phần load balancer đó các bạn! Cụ thể như thế nào? Trong bài viết này, mình sẽ hướng dẫn các bạn deploy ứng dụng load balancer sử dụng Nginx với Docker các bạn nhé!

Xem thêm các việc làm Java lương cao trên Station D

Để làm ví dụ cho bài viết này, mình sẽ sử dụng Docker Compose để mô phỏng một mô hình deploy sử dụng load balancer. Mình sẽ deploy ứng dụng ví dụ trong bài viết Giới thiệu về Docker Compose trên 3 container khác nhau sử dụng chung một PostgreSQL, một Nginx container làm nhiệm vụ load balancer forward request của người dùng tới 1 trong 3 container này:

Ứng dụng ví dụ

Với ứng dụng ví dụ, để biết Ngnix đang forward request của người dùng tới instance nào, mình sẽ add thêm code trong phương thức helloDockerCompose() của request “/hello” in ra dòng log “Received request …” như sau:

package com.huongdanjava.springboot;

import javax.sql.DataSource;
import org.slf4j.Logger;
import org.slf4j.LoggerFactory;
import org.springframework.beans.factory.annotation.Autowired;
import org.springframework.boot.SpringApplication;
import org.springframework.boot.autoconfigure.SpringBootApplication;
import org.springframework.boot.jdbc.metadata.HikariDataSourcePoolMetadata;
import org.springframework.web.bind.annotation.RequestMapping;
import org.springframework.web.bind.annotation.RestController;
import com.zaxxer.hikari.HikariDataSource;

@SpringBootApplication
@RestController
public class SpringBootDockerComposeApplication {

private static final Logger LOGGER =
LoggerFactory.getLogger(SpringBootDockerComposeApplication.class);

@Autowired
private DataSource dataSource;

@RequestMapping("/hello")
public String helloDockerCompose() {
LOGGER.info("Received request ...");

Integer idleConnection =
new HikariDataSourcePoolMetadata((HikariDataSource) dataSource).getIdle();

return "Hello Docker Compose! Idle connection to database is " + idleConnection;
}

public static void main(String[] args) {
SpringApplication.run(SpringBootDockerComposeApplication.class, args);
}

}

Khi chạy ứng dụng, chúng ta sẽ take a look vào Console của Docker Compose để biết là request đang được forward tới container nào.

Hãy build lại Docker Image cho ứng dụng ví dụ của chúng ta các bạn nhé!

Cấu hình của ứng dụng ví dụ cho 3 container tương ứng với 3 services trong tập tin docker-compose.yml, trong bài viết Giới thiệu về Docker Compose  sẽ như sau:

spring_boot_docker_compose_1:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_1
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8081:8080
networks:
- huongdanjava

spring_boot_docker_compose_2:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_2
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8082:8080
networks:
- huongdanjava

spring_boot_docker_compose_3:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_3
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8083:8080
networks:
- huongdanjava

Mỗi container sẽ expose port khác nhau bao gồm: 8081, 8082 và 8083.
Cấu hình của PostgreSQL database trong tập tin docker-compose.yaml, không đổi các bạn nhé!

Nginx

Trước khi đi vào chi tiết cấu hình load balancer với Nginx như thế nào, chúng ta sẽ điểm sơ qua một số thuật toán được sử dụng để hiện thực load balancer các bạn nhé! Chúng ta có một số thuật toán cơ bản sau:

  • Round Robin: các request từ người dùng sẽ được forward lần lượt đến tất cả các máy theo thứ tự. Có nghĩa là ứng dụng của chúng ta được deploy lên bao nhiêu máy thì request của người dùng sẽ lần lượt được forward đến tất cả các máy này. Request đầu tiên sẽ vào máy 1, request thứ 2 sẽ vào máy 2, … sau khi máy cuối cùng được sử dụng thì request tiếp theo sẽ vào máy 1.
  • Weighted Round Robin: tương tự như thuật toán Round Robin nhưng các máy deploy ứng dụng sẽ có cấu hình khác nhau. Máy nào có cấu hình cao hơn sẽ được đánh trọng số cao hơn và nhận được nhiều request hơn các bạn nhé!
  • Dynamic Round Robin: thuật toán này giống như Weighted Round Robin nhưng có sự khác biệt là trọng số của các máy sẽ không cố định. Cấu hình của các máy sẽ được kiểm tra liên tục, do đó trọng số sẽ thay đổi liên tục.
  • Fastest: thuật toán này dựa vào thời gian response của máy trong setup load balancer. Máy nào có thời gian response nhanh hơn sẽ được chọn để forward request.
  • Least Connections: máy nào có ít kết nối nhất sẽ được forward request tới.

Trong bài viết này, mình sẽ sử dụng thuật toán Round Robin với Nginx để làm ví dụ các bạn nhé!

Mình sẽ build một custom Nginx Docker image với Dockerfile có nội dung như sau:

FROM nginx:latest

RUN rm /etc/nginx/conf.d/default.conf

COPY nginx.conf /etc/nginx/conf.d/default.conf

trong đó, tập tin nginx.conf có nội dung như sau:

upstream apps {
server 172.17.0.1:8081;
server 172.17.0.1:8082;
server 172.17.0.1:8083;
}

server {
location / {
proxy_pass http://apps;
}
}

Trong tập tin nginx.conf trên, mình đã sử dụng reverse proxy của Nginx với directive upstream để hiện thực load balancer. Khi một request từ người dùng đến, request này sẽ được forward một trong 3 server được khai báo bên trong directive upstream này. Mặc định thì Nginx hỗ trợ thuật toán round-robin nên các bạn không cần khai báo gì thêm ngoài thông tin của 3 server.

Cũng cần nói thêm là khi start các container 172.17.0.1 là địa chỉ IP mặc định khi các container được start, nên như các bạn thấy, mình sử dụng 172.17.0.1 cho 3 container của ứng dụng ví dụ, với các port khác nhau như đã khai báo trong tập tin docker-compose.yaml.

Các bạn cần build custom Docker image này bằng câu lệnh sau:

docker build -t nginx:0.0.1 .

Kết quả:

Sau khi đã có Docker Image của Nginx, các bạn có thể khai báo một service cho Nginx trong tập tin docker-compose.yaml như sau:

nginx:
image: nginx:0.0.1
ports:
- 80:80

Đến đây thì chúng ta đã hoàn thành việc cấu hình để deploy load balancer cho ứng dụng ví dụ của chúng ta. Nội dung của tập tin docker-compose.yaml lúc này như sau:

version: '3.8'

services:
postgresql: 
image: postgres:13.3
container_name: postgres
restart: on-failure:5
environment:
POSTGRES_PASSWORD: "123456"
POSTGRES_USER: "khanh"
POSTGRES_DB: "test"
volumes:
- /Users/khanh/data:/var/lib/postgresql/data
ports:
- 5432:5432
networks:
- huongdanjava

spring_boot_docker_compose_1:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_1
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8081:8080
networks:
- huongdanjava

spring_boot_docker_compose_2:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_2
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8082:8080
networks:
- huongdanjava

spring_boot_docker_compose_3:
image: spring-boot-docker-compose
container_name: spring_boot_docker_compose_3
depends_on:
- postgresql
environment:
DATABASE_USERNAME: "khanh"
DATABASE_PASSWORD: "123456"
DATABASE_HOST: "postgresql"
DATABASE_NAME: "test"
DATABASE_PORT: 5432
ports:
- 8083:8080
networks:
- huongdanjava

nginx:
image: nginx:0.0.1
ports:
- 80:80

networks:
huongdanjava:
driver: bridge

Chạy tập tin này với docker compose up, các bạn sẽ thấy kết quả như sau:
Lúc này, nếu các bạn request tới http://localhost/hello lần thứ nhất, các bạn sẽ thấy Console của Docker Compose có kết quả như sau:

Container spring_boot_docker_compose_1 đã handle request này.

Lần thứ 2:

Lần này thì container spring_boot_docker_compose_2 handle request.
Lần thứ 3:

Và lần thứ tư sẽ quay lại spring_boot_docker_compose_1:

Đúng như expectation của chúng ta rồi đó các bạn!

Bài viết gốc được đăng tải tại huongdanjava.com

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm IT hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd