Dependency Injection – Web API ( C# )

Công Nghệ
Dependency Injection – Web API ( C# )
Bài viết được sự cho phép của tác giả Tino Phạm 1. Dependency Injection là gì? Hiện nay, các lập trình viên hay lẫn lộn giữa các khái niệm Dependency Inversion, Inversion of Control (IoC), Dependency Injection (DI) . Ba khái niệm này tương tự nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt giữa 3 khái niệm trên: Dependency Inversion : Đây là một nguyên lý để thiết kế và viết code. Inversion of Control : Đây là một design pattern được tạo ra để code có thể tuân thủ nguyên lý Dependency Inversion. Có nhiều cách hiện thực pattern này: ServiceLocator, Event, Delegate, … Dependency Injection là một trong các cách đó. Dependency Injection : Đây là một cách để hiện thực Inversion of Control Pattern (Có thể coi nó là một design pattern riêng cũng được). Các module phụ thuộc (dependency) sẽ được inject vào module cấp cao. Ghi chú: Đôi khi chúng ta so sánh giữa Dependency Injection với Abstraction Factory Design Pattern. Thế những có 1 chút khác biệt giữa hai phương pháp này, đó là DI có một Framework làm việc phía sau nó để gọi các factory và các service đã đăng ký. 18 Web Developer Jobs Tóm lại, Dependency Injection (DI) là một mẫu thiết kế phần mềm (software design parttern). Đây là cách tuyệt vời để giảm các kết nối chặc chẽ giữa các thành phần của phần mềm (software components). Nó cho phép chúng dễ dàng quản lý các thay đổi trong tương lai cũng như quản lý những hệ thống phần mềm phức tạp dễ hơn. Ưu điểm : Giảm sự kết dính giữa cách thành phần của phần mềm. Hay gọi là giảm sự phụ thuộc của các thành phần với nhau. Dễ bảo trì và dễ...

Bài viết được sự cho phép của tác giả Tino Phạm

1. Dependency Injection là gì?

Hiện nay, các lập trình viên hay lẫn lộn giữa các khái niệm Dependency Inversion, Inversion of Control (IoC), Dependency Injection (DI). Ba khái niệm này tương tự nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau.

Sự khác biệt giữa 3 khái niệm trên:

  • Dependency Inversion: Đây là một nguyên lý để thiết kế và viết code.
  • Inversion of Control: Đây là một design pattern được tạo ra để code có thể tuân thủ nguyên lý Dependency Inversion. Có nhiều cách hiện thực pattern này: ServiceLocator, Event, Delegate, … Dependency Injection là một trong các cách đó.
  • Dependency Injection: Đây là một cách để hiện thực Inversion of Control Pattern (Có thể coi nó là một design pattern riêng cũng được). Các module phụ thuộc (dependency) sẽ được inject vào module cấp cao.

Ghi chú: Đôi khi chúng ta so sánh giữa Dependency Injection với Abstraction Factory Design Pattern. Thế những có 1 chút khác biệt giữa hai phương pháp này, đó là DI có một Framework làm việc phía sau nó để gọi các factory và các service đã đăng ký.

18 Web Developer Jobs

Tóm lại, Dependency Injection (DI) là một mẫu thiết kế phần mềm (software design parttern). Đây là cách tuyệt vời để giảm các kết nối chặc chẽ giữa các thành phần của phần mềm (software components). Nó cho phép chúng dễ dàng quản lý các thay đổi trong tương lai cũng như quản lý những hệ thống phần mềm phức tạp dễ hơn.

Ưu điểm

  • Giảm sự kết dính giữa cách thành phần của phần mềm. Hay gọi là giảm sự phụ thuộc của các thành phần với nhau.
  • Dễ bảo trì và dễ thay đổi khi có nhu cầu. (không làm ảnh hưởng đến các thành phần khác trong cùng 1 hệ thống)
  • Tăng khả năng tái sử dụng.
  • Dễ viết Unit Test và kiểm thử.

Nhược điểm: 

  • Sử dụng interface nên đôi khi sẽ khó debug, do không biết chính xác module nào được gọi.
  • Làm tăng độ phức tạp của code.

2. Các dạng Dependency Injection

  • Constructor Injection: Các dependency sẽ được container truyền vào (inject vào) 1 class thông qua constructor của class đó. Đây là cách thông dụng nhất.
  • Setter Injection: Các dependency sẽ được truyền vào 1 class thông qua các hàm Setter.
  • Interface Injection: Class cần inject sẽ implement 1 interface. Interface này chứa 1 hàm tên Inject. Container sẽ injection dependency vào 1 class thông qua việc gọi hàm Inject của interface đó. Đây là cách rườm rà và ít được sử dụng nhất.

3. Mục đích của Dependency Injection là gì?

Chúng ta cần biết mục đích của DI dùng làm gì thì mới có thể áp dụng vào dự án của mình được và sử dụng loại DI nào cho phù hợp.

Với cách code thông thường, các module/class cấp cao sẽ gọi các module cấp thấp. Module/class cấp cao sẽ phụ thuộc và module/class cấp thấp, điều đó tạo ra những phụ thuộc giữa chúng (gọi là dependency). Khi module/class cấp thấp thay đổi, module/class cấp cao phải thay đổi theo. Một thay đổi sẽ kéo theo hàng loạt thay đổi, giảm khả năng bảo trì của code. Nếu bạn đang làm trên một dự án lơn thì việc thay đổi sẽ là điều kinh khủng đối với bạn (bạn sẽ sợ sửa cái này ảnh hưởng đến cái khác vì chúng đang có 1 sự phụ thuộc lẫn nhau mà).

Vậy nếu tuân theo Dependendy Inversion principle, các module cùng phụ thuộc vào 1 interface không đổi. Ta có thể dễ dàng thay thế, sửa đổi module cấp thấp mà không ảnh hưởng gì tới module cấp cao.

4. Viết code để hiểu về Dependency Injection

Mình phải công nhận là lý thuyết về thằng DI hơi khó tiêu, bạn cần phải đọc nhiều nguồn khác nhau bao gồm tiếng anh và tiếng việt để không bị bỏ xót và nhầm lẫn thông tin.

Bây giờ, mình có project đơn giản là đọc và hiển thị thông tin từ Database. Chúng ta sẽ cùng xem và so sánh giữa cách viết thông thường và cách viết sử dụng Dependency Injection để hiểu rõ hơn nhé.

Dependency Injection – Web API ( C# )Dependency Injection – Web API ( C# )

Nhìn hình trên, Tôi giả sử rằng lúc ban đầu ứng dụng của chúng ta chỉ cần lấy thông tin từ SQL database và hiện thị. vơi làm thông thường, chúng ta sẽ bắt đầu viết class GetMessageFromDatabase. hàm Main sẽ gọi class DisplayMessage và class DisplayMessage cần khởi tạo class GetMessageFromDatabase để lấy thông tin từ Database. Vài tháng sau, chúng ta nhận được yêu cầu từ khách hàng là họ muốn lấy thông tin từ Database và XML file. Vậy là chúng ta lại viết thêm class GetMessageFromXML để lấy thông tin từ XML file. Sau đó vài tháng, khách hàng lại muốn lấy thêm thông tin từ Text file và chúng ta lại ngồi viết thêm class GetMessageFromText tương ứng.

Vấn đề phát sinh là mỗi lần thêm một datasource mới (database, xml, text file) chúng ta cần phải viết một class để lấy dữ liệu tương ứng, sau đó lại phải sửa class DisplayMessage để nó khởi tạo và lấy đúng datasource mình cần. Nếu là một hệ thống lơn thì việc thay đổi này sẽ là một vấn đề lớn và mang lại nhiều phiền toái.

Mục đích của chúng ta cần là viết code theo một cách mà khi cần thêm vào một nguồn dữ liệu mới, thì chỉ cần update lại lời gọi datasource ở hàm Main thôi. Chúng ta không cần thay đổi code ở class DisplayMessage để thích ứng với các loại datasource mới được thêm vào.

Code không dùng Dependency Injection:

using System;
using System.Collections.Generic;
using System.Linq;
using System.Text;
namespace ConsoleApplication1
{
    class Program
    {
        static void Main(string[] args)
        {
            DisplayMessage dm = new DisplayMessage();
            dm.ShowMessage();
        }
    }

    public class DisplayMessage
    {
        GetMessageFromDatabase Gmd;
		
        public DisplayMessage()
        {
            Gmd = new GetMessageFromDatabase();
        }

        public void ShowMessage()
        {
            Console.WriteLine(Gmd.GetMessage());
            Console.ReadLine();
        }
    }

    public class GetMessageFromDatabase
    {
        public string GetMessage()
        {
            //Pretend this comes from the database
            return "Hi from database";
        }
    }
}

Mọi thứ OK, giả sử vài tháng sau chúng ta cần lấy nguồn dữ liệu từ XML dựa vào tham số ở hàm Main. Vậy chúng ta cần phải thêm class GetMessageFromXML vào code của mình. Đồng thời chúng ta cần phải sửa lại một chút code ở  hàm Main và class DisplayMessage. Bây giờ code của chúng ta sẽ như sau:

using System;
using System.Collections.Generic;
using System.Linq;
using System.Text;

namespace ConsoleApplication1
{
	class Program
	{
		static void Main(string[] args)
		{
			DisplayMessage dm = new DisplayMessage(args[0].ToString());	
			dm.ShowMessage();
		}
	}
	
	public class DisplayMessage
	{
		string source;
		
		public DisplayMessage(string s)
		{
			source = s;
		}
		
		public void ShowMessage()
		{
			if (source.ToUpper() == "DATABASE")
			{
				GetMessageFromDatabase Gmd = new GetMessageFromDatabase();
				Console.WriteLine(Gmd.GetMessage());
				Console.ReadLine();
			}
			else if (source.ToUpper() == "XML")
			{
				GetMessageFromXML Gmx = new GetMessageFromXML();
				Console.WriteLine(Gmx.GetMessage());
				Console.ReadLine();
			}
		}
	}

	public class GetMessageFromDatabase
	{
		public string GetMessage()
		{
			//Pretend this comes from the database
			return "Hi from database";
		}
	}
	
	public class GetMessageFromXML
	{
		public string GetMessage()
		{
			//Pretend this comes from an XML file
			return "Hi from XML";
		}
	}
}

Bây giờ giả sử vài tháng sau nữa chúng ta lại cần lấy dữ liệu từ file Text dựa vào tham số truyền vào ở hàm Main. Giờ mình làm gì đây?  viết thêm class GetMessageFromTextFile, rồi sửa lại code của class DisplayMessage nửa hả?

Bạn có thấy sự phụ thuộc của class DisplayMessage khi thực thi thế nào chưa? Đó là nó phải thay đổi dựa vào nguồn dữ liệu được lấy.

Inversion of Control  cố gắng làm cho class DisplayMessage và các class dữ liệu lấy ra hoàn toàn độc lập với nhau. Inversion of Control (IoC) thường được thực thi bằng việc áp dụng Dependency Injection (DI) như mình đã có nhắc ở phần định nghĩa.

Bây giờ chúng ta sẽ xem đoạn code trên dược áp dụng DI vào thì nó sẽ như thế nào nhé.

Code dùng Dependency Injection:

Trong đoạn code bên dưới tôi sẽ dùng 1 trong 3 loại Dependency Injection đó là Constructor Injection.

using System;
using System.Collections.Generic;
using System.Linq;
using System.Text;

namespace ConsoleApplication1
{
	public interface IGetData
	{
		string GetMessage();
	}
	
	class Program
	{
		static void Main(string[] args)
		{
			IGetData IG;
			string source = args[0].ToString();
			if (source.ToUpper() == "DATABASE")
			{
				IG = new GetMessageFromDatabase();
			}
			else if (source.ToUpper() == "XML")
			{
				IG = new GetMessageFromXML();
			}
			else if (source.ToUpper() == "TEXT")
			{
				IG = new GetMessageFromTextFile();
			}
			else
			{
				IG = new GetMessageFromDatabase();//default set to database
			}
			
			DisplayMessage dm = new DisplayMessage(IG);
			dm.ShowMessage();
		}
	}
	
	public class DisplayMessage
	{
		IGetData IGLocal;
		
		public DisplayMessage(IGetData IG)
		{
			IGLocal = IG;
		}
		
		public void ShowMessage()
		{
			Console.WriteLine(IGLocal.GetMessage());
		}
	}

	public class GetMessageFromDatabase : IGetData
	{
		public string GetMessage()
		{
			//Pretend this comes from the database
			return "Hi from database";
		}
	}

	public class GetMessageFromXML : IGetData
	{
		public string GetMessage()
		{
			//Pretend this comes from an XML file
			return "Hi from XML";
		}
	}

	public class GetMessageFromTextFile : IGetData
	{
		public string GetMessage()
		{
			//Pretend this comes from an Text file
			return "Hi from Text file";
		}
	}
}

Như bạn thấy ở ví dụ trên, việc tiêm (injecting) vào các phụ thuộc (dependencies) thông qua constructor (), Tôi đã tách class DisplayMessage và các class lấy dữ liệu (ex: class GetMessageFromDatabase ,…. ). Tôi có thể thêm nhiều class mới  để lấy data nêu tôi muốn mà không cần phải sửa lại class DisplayMessage, miễn sao những class đó phải được kế thừa (inherit) từ interface IGetData. Nghĩa là, mọi thứ ở đây sẽ phụ thuộc vào chỉ 1 Interface. Đây đều chúng ta mong muốn (giảm được sự phụ thuộc – reduce dependencies ).

Hy vọng sẽ giúp bạn nắm được cơ bản về khái niệm và cách sử dụng Dependency Injection.

Bài viết gốc được đăng tải tại thangphampt.wordpress.com

Có thể bạn quan tâm:

Ứng tuyển ngay it jobs for Developer lương cao tại đây

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd