Bean, ApplicationContext, Spring Bean Life Cycle và Component scan

Công Nghệ
Bean, ApplicationContext, Spring Bean Life Cycle và Component scan

Bài viết được sự cho phép của tác giả Lê Chí Dũng

1. Bean là gì?

Trong documentation của Spring framework, thì bean được định nghĩa như sau:

In Spring, the objects that form the backbone of your application and that are managed by the Spring IoC container are called beans. A bean is an object that is instantiated, assembled, and otherwise managed by a Spring IoC container.

Nói một cách đơn giản, bean là những module chính của chương trình, được tạo ra và quản lý bởi Spring IoC container.

Các bean có thể phụ thuộc lẫn nhau, như ví dụ về CarEngine và ChinaEngine từ đầu series tới giờ. Sự phụ thuộc này được mô tả cho IoC biết nhờ cơ chế Dependency injection.

Lúc này chỉ cần biết đơn giản nhất là dùng @Component lên class là class đó là một bean.

Xem thêm nhiều việc làm Spring lương cao trên Station D

2. ApplicationContext là gì?

ApplicationContext là khái niệm Spring Boot dùng để chỉ Spring IoC container, tương tự như bean là đại diện cho các dependency.

Ngoài ra bạn có thể sẽ nghe nói về BeanFactory. Nó cũng đại loại như ApplicationContext, đại diện cho Spring IoC container nhưng ở mức cơ bản. ApplicationContext thì ở mức cao hơn, cung cấp nhiều tính năng hơn BeanFactory như i18n, resolving messages, publishing events,…

ApplicationContextApplicationContext

Khi ứng dụng Spring chạy, Spring IoC container sẽ quét toàn bộ packages, tìm ra các bean và đưa vào ApplicationContext. Cơ chế đó là Component scan.

Cách lấy bean ra từ Context

Tất nhiên trước khi lấy bean ra từ context thì phải có context rồi. Câu hỏi đặt ra là biến context ở đâu?

Đó là ngay dòng bắt đầu chương trình Spring Boot. Câu lệnh sau.

@SpringBootApplication
public class Application {
    public static void main(String[] args) {
        SpringApplication.run(Application.class, args);
    }
}

Dòng method SpringApplication.run() sẽ return về một object ApplicationContext interface, đại diện cho IoC container.

ApplicationContext context = SpringApplication.run(Application.class, args);

Chúng ta có thể lấy ra bean từ đây, dùng method getBean().

// Lấy ra bean có class cụ thể
Car car = context.getBean(Car.class);

// Lấy ra theo tên và class
// Tuy là Engine.class nhưng Engine lại là interface
Engine engine = context.getBean("ChinaEngine", Engine.class);

3. Kĩ thuật inject bean vào bean khác

Ví dụ bạn có hai bean là Car và Engine (như ví dụ từ đầu series tới giờ). Và Car thì phụ thuộc vào Engine, do đó theo Dependency injection thì chúng ta cần inject Engine vào trong Car.

3.1. Sử dụng @Autowired

Chúng ta sử dụng annotation @Autowired để báo cho Spring biết tự động tìm và inject bean phù hợp vào vị trí đặt annotation. Ví dụ.

// Annotation chỉ đánh dấu lên class
public interface Engine {
    void run();
}
@Component
public class ChinaEngine implements Engine {
    @Override
    public void run() {}
}
@Component
public class Car {
    // Báo cho Spring tìm bean nào phù hợp với Engine interface
    // Và có một bean phù hợp là ChinaEngine
    // Nó tương đương với = new ChinaEngine()
    @Autowired
    private final Engine engine;
}

Cách dùng @Autowired trên field là không được khuyến khích, do nó sử dụng Java reflection để inject. Chúng ta nên cân nhắc đổi qua dùng inject theo kiểu constructor hoặc setter.

3.2. Inject qua constructor hoặc setter

Code inject theo kiểu constructor-based nên dùng khi các module là bắt buộc. Khi đó Spring Boot khi tạo bean (cũng chỉ là tạo object, gọi constructor thôi) thì sẽ đưa các phụ thuộc vào constructor khi gọi.

Ví dụ class Car đã được sửa lại để inject Engine vào qua constructor.

@Component
public class Car {
    private final Engine engine;
    
    // Các bản Spring Boot mới thì không cần @Autowired trên constructor
    public Car(Engine engine) {
        this.engine = engine;
    }
}

Hoặc dùng kiểu setter-based như sau. Spring Boot sau khi tạo xong bean Car sẽ gọi thêm method setEngine() sau đó.

@Component
public class Car {
    private final Engine engine;
    
    // Thêm @Required để setter luôn được gọi để inject
    @Required
    public void setEngine(Engine engine) {
        this.engine = engine;
    }
}

Cách dùng setter để inject thường dùng trong trường hợp phụ thuộc vòng, module A phụ thuộc vào B và ngược lại. Do đó, nếu cả hai đều sử dụng constructor based injection thì Spring Boot sẽ không biết nên tạo bean nào trước. Vì thế, giải pháp là một bean sẽ dùng constructor, một bean dùng setter như trên.

4. Khi Spring Boot không biết chọn bean nào?

4.1. Khi tìm thấy nhiều bean phù hợp

Cũng lấy ví dụ trên, nếu chúng ta tạo thêm class VNEngine có chức năng tương tự ChinaEngine.

@Component
public class VNEngine implements Engine {
    @Override
    public void run() {}
}

Thì Spring Boot sẽ báo lỗi như sau (báo khi chạy và cả trong IDE nữa.

ApplicationContextApplicationContext

Có thể hiểu do Spring Boot đã tìm thấy hai bean phù hợp để inject vào Car. Do cả hai VNEngine và ChinaEngine đều implements Engine, mà Car cần Engine nên không biết nên chọn cái nào.

4.2. Giải pháp

Có hai cách giải quyết vấn đề này. Thứ nhất là dùng @Primary đánh dấu lên một bean. Khi đó bean này sẽ được ưu tiên chọn hơn, trong trường hợp có nhiều bean phù hợp trong context.

@Component
@Primary
public class VNEngine implements Engine {
    ...
}

Cách 2 là chỉ định rõ tên bean (tên class) cụ thể được inject bằng @Qualifier.

@Component
public class Car {
    @Autowired
    @Qualifier("VNEngine")  // Phải khớp hoa thường luôn nhe
    private final Engine engine;
}

Đối với constructor hay setter based cũng tương tự, chỉ cần có @Qualifier trước tên field cần inject vào là được.

3. Spring Bean Life Cycle

1.1. Bean life cycle

Trong bài trước chúng ta đã tìm hiểu sơ lược về bean là gì, hôm nay chúng ta sẽ đi sâu hơn tí nhé.

Vòng đời (life cycle) của bean được hiểu là từ khi bean được tạo ra cho tới khi chết đi, sẽ có những sự kiện (event) khác nhau xảy ra. Về vòng đời của bean có thể mô tả bởi sơ đồ sau.

Nhìn có vẻ dài và khó hiểu, nhưng đại loại sẽ gồm các bước sau:

  • IoC container tạo bean bằng cách gọi constructor (có thể inject các bean dependency vào đây)
  • Gọi các setter method để inject các bean vào bằng setter based injection
  • Các method khởi tạo khác được gọi (không cần quan tâm nhiều)
  • @PostConstructor được gọi
  • Init method được gọi

Sau đó bean sẽ sẵn sàng hoạt động. Nếu sau đó bean không dùng nữa thì nó sẽ được hủy:

  • Gọi @PreDestroy
  • Hủy bean như các object thông thường

1.2. @PostConstructor và @PreDestroy

Đây là hai event khá quan trọng với bean, bạn có thể hook một method vào đó để thực thi khi event xảy ra:

  • @PostConstruct là sau khi bean đã khởi tạo xong
  • @PreDestroy là trước khi bean bị phá hủy

Chúng ta dùng hai annotation trên đánh dấu lên method nào đó, method đó sẽ được tự động gọi khi sự kiện bean xảy ra.

class Car {
    @Autowired
    private final Engine engine;
    
    @PostConstruct
    public void testRun() {
        engine.run();
        engine.stop();
    }
    
    @PreDestroy
    public void stopEngine() {
        engine.stop();
    }
}

Như code ví dụ trên, mình gắn @PostConstruct cho method testRun(). Method này được gọi khi bean Car được tạo ra và khởi tạo hoàn chỉnh. Và trước khi Car bị phá hủy, thì cần gọi stopEngine tương tự như trên.

Dùng trong thực tế thì hai annotation trên làm các nhiệm vụ như:

  • @PostConstruct dùng để thực hiện một số task khi khởi tạo bean
  • @PreDestroy thực hiện các task để dọn dẹp bean sau khi dùng xong

2. Các loại bean

Nói đúng hơn thì gọi là các scope, phân loại dựa trên số lượng bean được tạo ra. Bean gồm có 5 scope:

  • Singleton (mặc định): IoC container chỉ tạo đúng duy nhất 1 object từ class bean này
  • Prototype: return một bean object riêng biệt cho mỗi lần sử dụng.
  • Request: tạo mỗi bean cho mỗi request
  • Session: tạo mỗi bean cho mỗi session
  • Global session: tạo mỗi bean cho mỗi global session (cái này không hiểu lắm)

Trong 5 scope trên chúng ta chỉ quan tâm tới hai scope đầu. Thường thì các bạn sẽ ít đụng tới prototype bean, nhưng mình cũng viết ra tại đây luôn.

Đối với singleton bean thì khỏi cần đánh dấu gì hết, nó là mặc định rồi. Còn nếu muốn chỉ định một class là prototype bean thì dùng @Scope như sau.

@Component
@Scope("prototype")
class PrototypeBean {
    ...
}

Nói rõ hơn về prototype bean, ví dụ bean X được sử dụng bởi hai bean khác là A, B:

  • Nếu X là singleton bean, thì chỉ có một object X được tạo ra. A và B dùng chung X.
  • Nếu X là prototype bean, thì có 2 X được tạo ra cho 2 bean khác sử dụng là X cho A và X cho B.

3. Cách định nghĩa bean

Có 3 cách định nghĩa class là một bean:

  • Khai báo trong file XML
  • Dùng annotation trên class
  • Dùng @Configuration và @Bean

Tùy từng trường hợp cụ thể mà dùng cho phù hợp. Ví dụ trong series này mình không bàn sâu về cấu hình bean bằng XML (do Spring Boot sinh ra không phải để cấu hình).

3.1. Dùng XML, annotations

Nhưng đơn giản, các bạn cũng nên biết trước đây Spring dùng XML để cấu hình các bean như sau. Nó khá là cực nên người ta dùng cách khác hay hơn.

<?xml version = "1.0" encoding = "UTF-8"?>

<beans xmlns = "http://www.springframework.org/schema/beans"
    xmlns:xsi = "http://www.w3.org/2001/XMLSchema-instance"
    xsi:schemaLocation = "http://www.springframework.org/schema/beans
    http://www.springframework.org/schema/beans/spring-beans-3.0.xsd">
    
    <!-- Đây là bean Car -->
    <bean id="" class="Car" init-method="testRun">
        <!-- Cấu hình thuộc tính property cho bean -->
    </bean>
</beans>

Do đó người ta mới dùng cách cấu hình bean dựa trên các annotation như @Component. Cụ thể thì như bài trước có nói, chỉ cần đánh dấu @Component lên trên class thì IoC sẽ biết và tạo bean từ class đó.

@Component
public class Car {
    ...
}

Ngoài ra có các annotations khác cụ thể hơn như @Service@Repository@Controller,… cũng bao gồm @Component, nên tác dụng của chúng cũng là tạo bean.

3.3. Dùng @Bean bên trong @Configuration

Cách này dùng cho trường hợp bean cần thực hiện nhiều thao tác phức tạp để khởi tạo, hoặc có nhiều bean liên quan với nhau. Do đó, thay vì khởi tạo riêng rẽ từng class là từng bean, thì gom chung các bean cần khởi tạo lại bỏ vào class chứa là @Configuration.

Thường thì các class đánh dấu @Configuration có hậu tố là Config.

@Configuration
public class AppConfig {
    // Khởi tạo trước các logic phức tạp
    // Có thể quy định thứ tự khởi tạo bean bằng `@Order`
    public AppConfig() {
        ...
    }

    @Bean
    public Car carBean() {
        return new Car();
    }
    
    @Bean
    public PasswordEncoder passwordEncoderBean() {
        return new BCryptPasswordEncoder();
    }
    
    // Có thể định nghĩa nhiều bean khác với @Bean
}

Khi Spring tìm thấy class @Configuration, nó sẽ tạo bean của class này trước (do @Configuration cũng là @Component). Trong khi tạo thì các logic khởi tạo cũng được thực thi, để chuẩn bị sẵn sàng tạo các @Bean bên trong.

Sau đó Spring Boot sẽ tìm các method được đánh dấu @Bean bên trong @Configuration để tạo bean. Thường thì các bean dạng này ngắn và return ngay object chứ không phải để Spring Boot tạo ra.

Các bean cũng được đưa vào ApplicationContext như bình thường.

Tuy nhiên, không phải class nào đánh dấu cũng được tạo bean. Mà phải có điều kiện quá trình component scan của IoC phải tìm thấy nó. Chúng ta sẽ đi tiếp về component scan ngay sau đây.

4. Component scan

4.1. Cách component scan hoạt động

Khi ứng dụng Spring Boot bắt đầu chạy, thì nó sẽ tìm hết các class đánh dấu là bean trong chương trình và tạo bean. Quá trình tìm kiếm các bean này gọi là component scan.

Component scan sẽ tìm toàn bộ class ở package cùng cấp hoặc các package thấp hơn

Do đó, class đánh dấu @SpringBootApplication có chứa main method sẽ là nơi bắt đầu. Spring Boot sẽ tìm từ package này (package gốc) tìm xuống để tạo các bean.

src/main/java/
    com/tonghoangvu/demo/
        DemoApplication.java
        components/
            Engine.java
            ChinaEngine.java
            Car.java
        controllers/
            UserController.java

Do cấu trúc thư mục mặc định của Spring Boot nó thế, nên từ package gốc có DemoApplication.java là com.tonghoangvu.demo, nó sẽ tìm:

  • Các class cùng cấp, tìm được DemoApplication class, tạo bean
  • Tìm xuống các package thấp hơn như com.tonghoangvu.demo.components và com.tonghoangvu.demo.controllers, tìm thêm được các class như ChinaEngineCarUserController (Engine.java là interface nhé).

Do đó, mặc định mọi class được khai báo là bean đều có thể được tìm được.

4.2. Tùy chỉnh package tìm kiếm

Trong trường hợp bạn chỉ muốn Spring Boot tìm các bean trong một package cụ thể, ví dụ chỉ tìm trong thư mục components thì có 2 cách như sau.

// Cách 1 dùng @ComponentScan với 1 hoặc nhiều string (cần có {})
@ComponentScan("com.tonghoangvu.demo.components")

// Cách 2 thêm thuộc tính @SpringBootApplication scanBasePackages
@SpringBootApplication(scanBasePackages = {
    "com.tonghoangvu.demo.components",
    "com.tonghoangvu.demo.controllers"
})
public class DemoApplication {
    public static void main(String[] args) {
        ...
    }
}

Bài viết hôm nay đến đây là xong, cũng coi như là đi gần hết phần lý thuyết của Spring Boot rồi.

Bài viết gốc được đăng tải tại lcdung.top

Có thể bạn quan tâm:

Xem thêm Việc làm IT hấp dẫn trên Station D

Bài viết liên quan

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bộ cài đặt Laravel Installer đã hỗ trợ tích hợp Jetstream

Bài viết được sự cho phép của tác giả Chung Nguyễn Hôm nay, nhóm Laravel đã phát hành một phiên bản chính mới của “ laravel/installer ” bao gồm hỗ trợ khởi động nhanh các dự án Jetstream. Với phiên bản mới này khi bạn chạy laravel new project-name , bạn sẽ nhận được các tùy chọn Jetstream. Ví dụ: API Authentication trong Laravel-Vue SPA sử dụng Jwt-auth Cách sử dụng Laravel với Socket.IO laravel new foo --jet --dev Sau đó, nó sẽ hỏi bạn thích stack Jetstream nào hơn: Which Jetstream stack do you prefer? [0] Livewire [1] inertia > livewire Will your application use teams? (yes/no) [no]: ... Nếu bạn đã cài bộ Laravel Installer, để nâng cấp lên phiên bản mới bạn chạy lệnh: composer global update Một số trường hợp cập nhật bị thất bại, bạn hãy thử, gỡ đi và cài đặt lại nha composer global remove laravel/installer composer global require laravel/installer Bài viết gốc được đăng tải tại chungnguyen.xyz Có thể bạn quan tâm: Cài đặt Laravel Làm thế nào để chạy Sql Server Installation Center sau khi đã cài đặt xong Sql Server? Quản lý các Laravel route gọn hơn và dễ dàng hơn Xem thêm Tuyển dụng lập trình Laravel hấp dẫn trên Station D

By stationd
Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Principle thiết kế của các sản phẩm nổi tiếng

Tác giả: Lưu Bình An Phù hợp cho các bạn thiết kế nào ko muốn làm code dạo, design dạo nữa, bạn muốn cái gì đó cao hơn ở tầng khái niệm Nếu lập trình chúng ta có các nguyên tắc chung khi viết code như KISS , DRY , thì trong thiết kế cũng có những nguyên tắc chính khi làm việc. Những nguyên tắc này sẽ là kim chỉ nam, nếu có tranh cãi giữa các member trong team, thì cứ đè nguyên tắc này ra mà giải quyết (nghe hơi có mùi cứng nhắc, mình thì thích tùy cơ ứng biến hơn) Tìm các vị trí tuyển dụng designer lương cao cho bạn Nguyên tắc thiết kế của GOV.UK Đây là danh sách của trang GOV.UK Bắt đầu với thứ user cần Làm ít hơn Thiết kế với dữ liệu Làm mọi thứ thật dễ dàng Lặp. Rồi lặp lại lần nữa Dành cho tất cả mọi người Hiểu ngữ cảnh hiện tại Làm dịch vụ digital, không phải làm website Nhất quán, nhưng không hòa tan (phải có chất riêng với thằng khác) Cởi mở, mọi thứ tốt hơn Bao trừu tượng luôn các bạn, trang Gov.uk này cũng có câu tổng quát rất hay Thiết kế tốt là thiết kế có thể sử dụng. Phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng, dễ đọc nhất nhất có thể. Nếu phải từ bỏ đẹp tinh tế – thì cứ bỏ luôn . Chúng ta tạo sản phẩm cho nhu cầu sử dụng, không phải cho người hâm mộ . Chúng ta thiết kế để cả nước sử dụng, không phải những người đã từng sử dụng web. Những người cần dịch vụ của chúng ta nhất là những người đang cảm thấy khó sử dụng dịch...

By stationd
Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Hiểu về trình duyệt – How browsers work

Bài viết được sự cho phép của vntesters.com Khi nhìn từ bên ngoài, trình duyệt web giống như một ứng dụng hiển thị những thông tin và tài nguyên từ server lên màn hình người sử dụng, nhưng để làm được công việc hiển thị đó đòi hỏi trình duyệt phải xử lý rất nhiều thông tin và nhiều tầng phía bên dưới. Việc chúng ta (Developers, Testers) tìm hiểu càng sâu tầng bên dưới để nắm được nguyên tắc hoạt động và xử lý của trình duyệt sẽ rất hữu ích trong công việc viết code, sử dụng các tài nguyên cũng như kiểm thử ứng dụng của mình. Cách để npm packages chạy trong browser Câu hỏi phỏng vấn mẹo về React: Component hay element được render trong browser? Khi hiểu được cách thức hoạt động của trình duyệt chúng ta có thể trả lời được rất nhiều câu hỏi như: Tại sao cùng một trang web lại hiển thị khác nhau trên hai trình duyệt? Tại sao chức năng này đang chạy tốt trên trình duyệt Firefox nhưng qua trình duyệt khác lại bị lỗi? Làm sao để trang web hiển thị nội dung nhanh và tối ưu hơn một chút?… Hy vọng sau bài này sẽ giúp các bạn có một cái nhìn rõ hơn cũng như giúp ích được trong công việc hiện tại. 1. Cấu trúc của một trình duyệt Trước tiên chúng ta đi qua cấu trúc, thành phần chung và cơ bản nhất của một trình duyệt web hiện đại, nó sẽ gồm các thành phần (tầng) như sau: Thành phần nằm phía trên là những thành phần gần với tương tác của người dùng, càng phía dưới thì càng sâu và nặng về xử lý dữ liệu hơn tương tác. Nhiệm...

By stationd
Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Thị trường EdTech Vietnam- Nhiều tiềm năng nhưng còn bị bỏ ngỏ tại Việt Nam

Lĩnh vực EdTech (ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm giáo dục) trên toàn cầu hiện nay đã tương đối phong phú với nhiều tên tuổi lớn phân phối đều trên các hạng mục như Broad Online Learning Platforms (nền tảng cung cấp khóa học online đại chúng – tiêu biểu như Coursera, Udemy, KhanAcademy,…) Learning Management Systems (hệ thống quản lý lớp học – tiêu biểu như Schoology, Edmodo, ClassDojo,…) Next-Gen Study Tools (công cụ hỗ trợ học tập – tiểu biểu như Kahoot!, Lumosity, Curriculet,…) Tech Learning (đào tạo công nghệ – tiêu biểu như Udacity, Codecademy, PluralSight,…), Enterprise Learning (đào tạo trong doanh nghiệp – tiêu biểu như Edcast, ExecOnline, Grovo,..),… Hiện nay thị trường EdTech tại Việt Nam đã đón nhận khoảng đầu tư khoảng 55 triệu đô cho lĩnh vực này nhiều đơn vị nước ngoài đang quan tâm mạnh đến thị trường này ngày càng nhiều hơn. Là một trong những xu hướng phát triển tốt, và có doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trong ngành nêu tại infographic như Topica, nhưng EdTech vẫn chỉ đang trong giai đoạn sơ khai tại Việt Nam. Tại Việt Nam, hệ sinh thái EdTech trong nước vẫn còn rất non trẻ và thiếu vắng nhiều tên tuổi trong các hạng mục như Enterprise Learning (mới chỉ có MANA), School Administration (hệ thống quản lý trường học) hay Search (tìm kiếm, so sánh trường và khóa học),… Với chỉ dưới 5% số dân công sở có sử dụng một trong các dịch vụ giáo dục online, EdTech cho thấy vẫn còn một thị trường rộng lớn đang chờ được khai phá. *** Vừa qua Station D đã công bố Báo cáo Vietnam IT Landscape 2019 đem đến cái nhìn toàn cảnh về các ứng dụng công...

By stationd